Nhận biết và chủ động phòng ngừa hội chứng suy giảm trí nhớ

Hội chứng suy giảm trí nhớ – Bệnh Alzheimer là bệnh thoái hóa thần kinh gây sa sút trí nhớ. Người bệnh có thể suy giảm dần dần các chức năng nhận thức rồi mất trí nhớ vĩnh viễn. Bệnh thường khởi phát ở độ tuổi từ 65 trở lên làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sống hằng ngày. Căn nguyên của bệnh chưa rõ ràng, biểu hiện rõ nhất là trạng phái mất trí nhớ không phục hồi. Các nơ-ron trong não dần giảm sút, teo lan tỏa võ não và giãn rộng não nhất. Vậy nguyên nhân gây bệnh là gì, làm thế nào để phòng ngừa? Hãy cùng fempride tìm hiểu trong bài viết sau.

Lịch sử phát hiện bệnh

Một trong những bí ẩn lớn của bệnh Alzheimer là tại sao bệnh lại chủ yếu tấn công người lớn tuổi. Các nhà khoa học đang tìm hiểu những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong não có thể gây hại cho các tế bào thần kinh và ảnh hưởng đến các loại tế bào não khác như thế nào để góp phần gây ra hiện tượng này. Những thay đổi liên quan đến tuổi tác này. Bao gồm teo một số bộ phận của não, viêm, tổn thương mạch máu. Sản xuất các gốc tự do và rối loạn chức năng ty thể.

Tỷ lệ bệnh Alzheimer
Tỷ lệ bệnh Alzheimer ở người trên 65 tuổi là khoảng 5% và ở nhóm người trên 85 tuổi là 20%.

Alzheimer được biết đến là nguyên nhân phổ biến của hội chứng sa sút trí tuệ. Bệnh được đặt theo tên của bác sĩ tâm thần, tiến sĩ Alois Alzheimer người đầu tiên mô tả căn bệnh này. Năm 1906, vị tiến sĩ này nhận thấy những thay đổi trong mô não của một phụ nữ đã chết vì một căn bệnh tâm thần bất thường. Các triệu chứng của bệnh nhân đó bao gồm mất trí nhớ. Các vấn đề về ngôn ngữ và hành vi không kiểm soát. Sau khi bệnh nhân qua đời, ông đã kiểm tra não bộ và tìm thấy nhiều khối bất thường. Được gọi là mảng vón amyloid và các đám rối sợi thần kinh, hoặc đám rối “tau”.

Nguyên nhân gây hội chứng suy giảm trí nhớ

Nguyên nhân của bệnh Alzheimer còn chưa được biết rõ. Hiện nay, một số nghiên cứu cho rằng sự kết hợp yếu tố nguy cơ môi trường. Và gene kích hoạt quá trình bệnh lý sau nhiều năm gây sa sút trí tuệ. Ngoài ra, các yếu tố nguy cơ gây bệnh khác. Gồm cao tuổi, béo phì hoặc cơ thể có các yếu tố nguy cơ mạch máu. Như hút thuốc lá, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp…

Các nhà khoa học đưa ra một số giả thuyết cố gắng giải thích nguyên nhân của bệnh. Trong đó có giả thuyết cholinergic thiết lập cả phương pháp trị liệu bệnh trực tiếp. Giả thuyết này đề xuất rằng AD là do giảm tổng hợp của chất truyền thần kinh acetylcholin. Tuy nhiên giả thuyết cholinergic đã không được duy trì hỗ trợ rộng rãi. Vì thuốc dùng để điều trị thiếu hụt acetylcholine thực sự không có hiệu quả đối với bệnh nhân.

Những biểu hiện sớm của bệnh

Biểu hiện sớm của bệnh Alzheimer chủ yếu là triệu chứng quên. Người bệnh quên những việc gần đây. Quên những chi tiết quan trọng, quên tên người, cuộc hẹn, quên uống thuốc… Và thường phải nhờ vào lịch và ghi chú. Đặc biệt, còn có thêm triệu chứng là bệnh nhân thường. Hay lặp lại cùng một câu chuyện, cùng một câu hỏi hay cùng một vấn đề.

hoạt động sống
Bệnh ảnh hưởng đến các hoạt động sống, làm việc, các mối quan hệ gia đình và xã hội hàng ngày

Không những vậy, người bệnh dễ bị xao nhãng bởi những sự kiện xung quanh xen vào, suy nghĩ và thực hiện những công việc hàng ngày chậm, dễ mắc sai sót hơn. Ngoài ra, trong giai đoạn sớm, người bệnh có thể gặp khó khăn trong việc hiểu, diễn đạt bằng lời và có thể có thay đổi kín đáo về hành vi, thái độ và cảm xúc.

Hội chứng suy giảm trí nhớ – bệnh Alzheimer dần dần sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động sống, làm việc. Các mối quan hệ gia đình và xã hội hàng ngày của người bệnh. Vì vậy, việc phát hiện và điều trị sớm có ý nghĩa quan trọng trong việc làm chậm diễn tiến của bệnh. Cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Và giảm gánh nặng cho người chăm sóc.

Chủ động phòng ngừa suy giảm trí nhớ

Hiện nay không có bất kỳ bằng chứng dứt khoát nào hỗ trợ đặc biệt hiệu quả cho các biện pháp ngăn chặn. Hoặc trì hoãn sự khởi đầu của bệnh. Tuy nhiên các nghiên cứu dịch tễ học đã đề xuất mối quan hệ giữa các yếu tố nhất định. Chẳng hạn mối liên hệ giữa chế độ ăn uống, nguy cơ tim mạch. Các sản phẩm dược phẩm, sản phẩm công nghệ thông tin. Với khả năng số bệnh nhân ngày một tăng.

Mặc dù các yếu tố tim mạch, như tăng cholesterol, tăng huyết áp, tiểu đường và hút thuốc lá. Được liên kết với một nguy cơ khởi phát và phát triển bệnh Alzheimer. Nhưng statin là loại thuốc làm giảm cholesterol vẫn chưa chứng minh được hiệu quả trong việc ngăn ngừa. Hoặc cải thiện tiến trình phát triển bệnh. Chế độ ăn kiêng của người vùng Địa Trung Hải. Trong đó bao gồm trái cây và rau quả, bánh mì, lúa mì và ngũ cốc khác, dầu ô liu. Cá và rượu vang đỏ có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.

nguy cơ mắc bệnh
Tương tác xã hội thường xuyên cho thấy giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer

Tham gia các hoạt động trí tuệ

Việc sử dụng vitamin không tìm thấy bằng chứng đủ hiệu quả để khuyến cáo trong việc phòng ngừa. Và chữa trị bệnh: như vitamin C, E, hoặc axit folic, có hoặc không có vitamin B12. Thử nghiệm kiểm tra acid folic (B9) và vitamin B khác không cho thấy bất kỳ liên kết quan trọng với suy giảm nhận thức.

Những người tham gia các hoạt động trí tuệ như đọc sách, chơi trò chơi hội đồng. Hoàn thành câu đố ô chữ, chơi nhạc cụ, hoặc tương tác xã hội thường xuyên cho thấy giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Điều này tương thích với các lý thuyết dự trữ nhận thức. Trong đó nêu rằng một số kinh nghiệm đời sống cho kết quả hoạt động thần kinh hiệu quả hơn. Việc cung cấp dự trữ một nhận thức cá nhân trong sự trì hoãn việc khởi đầu của những biểu hiện mất trí nhớ.

Chăm sóc người bệnh tại nhà

Bệnh Alzheimer không thể chữa trị được. Và dần dần nó sẽ làm cho người bệnh không có khả năng đáp ứng những nhu cầu riêng của họ. Cho nên việc chăm sóc phải được quản lý chặt chẽ trong quá trình của bệnh. Trong giai đoạn đầu và giữa, sửa đổi môi trường sống và lối sống có thể tăng tính an toàn cho bệnh nhân. Và giảm gánh nặng cho người chăm sóc. Bệnh nhân có thể không có khả năng tự ăn uống. Do đó, yêu cầu thực phẩm được cắt thành từng miếng nhỏ hoặc nghiền. Khi nuốt sẽ rất khó khăn, cho nên phải sử dụng các ống dẫn thức ăn.

Trong trường hợp này, hiệu quả y tế và đạo đức của việc nuôi bệnh. Là một yếu tố quan trọng của những người chăm sóc và các thành viên trong gia đình.  Khi bệnh tiến triển, các vấn đề y tế khác nhau có thể xuất hiện. Chẳng hạn như bệnh răng miệng, loét áp lực, suy dinh dưỡng, các vấn đề vệ sinh, da, hô hấp. Hoặc nhiễm trùng mắt. Chăm sóc cẩn thận có thể ngăn chặn chúng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *